Phần I: CONCEPT & CO2
Trồng thủy sinh như thế nào?
Trong phần này tôi muốn nêu lên vài kỹ thuật để giúp thủy sinh phát triển tốt.
Có sự khác biệt rất lớn giữa thực vật trên cạn và thực vật thủy sinh. Cây cạn có thể tự phát triển trong một mảnh sân không cần tưới nước và sử dụng 0.03% CO2 trong không khí và ánh nắng mặt trời để quang hợp. Còn hồ cá thì cũng đơn giản không kém chỉ cần lo cho cá ăn uống đầy đủ là ổn. Nhưng trong hồ thủy sinh cây và cá tồn tại song song, những điều kiện tự nhiên hoàn toàn được tái tạo một cách nhân tạo. Trong điều kiện kiểm soát chặt chẻ sẽ có ít chỗ cho sự sai sót.
Carbon Dioxide
Mọi người đều biết thực vật có lá màu xanh cần CO2. Không có CO2 cây sẽ không thể tổng hợp được chất dinh dưỡng cần thiết cho sự sống. Thực vật có thể nhận được CO2 từ không khí và trong nước. CO2 trong nước là sản phẩm chính quá trình vi sinh phân hủy chất hữu cơ. Trong hồ thủy sinh lượng CO2 do cá sản sinh ra được cây sử dụng tức thì. Điều này là nguyên nhân làm cho độ pH cao (môi trường kiềm tính). Cung cấp đủ CO2 cho hệ sinh thái trong hồ thủy sinh là nhiệm vụ cơ bản của người chơi thủy sinh, thử thách chính là cân bằng được nhu cầu của cây và cá.
Ngày nay có rất nhiều dụng cụ để cung cấp CO2 cho hồ thủy sinh. Nếu hồ thủy sinh lớn, một thiết bị kiểm soát CO2 điện tử là cần thiết nhằm tránh cho hồ thủy sinh thiếu hụt CO2 thường xuyên. Hồ thủy sinh nhỏ thì đơn giản hơn nếu cây không phát triển thì cây thiếu CO2 hoặc ánh sáng.
Cách đơn giản để biết cây có quang hợp hay không đó là quan sát cây khoảng 2 giờ sau khi ngắt nguồn CO2. Những bọt khí nhỏ trên lá chứng tỏ là cây đang quang hợp, ngược lại cần cung cấp thêm CO2 cho cây trước tiên. Sau đó mới nghĩ đến việc khắc phục thiếu sót ở lọc hoặc đèn.
Lượng CO2 trong nước có thể đo được thông qua độ pH của môi trường nước. Nếu độ pH dưới mức trung tính là 7.0 , lượng CO2 đang thừa, môi trường nước mang tính acid. Nếu độ pH tăng cao trên 7.0, lượng CO2 đang thiếu, môi trường nước đang thiếu. Mối quan hệ trên chỉ mang tính chuẩn đoán nhanh tiện lợi. Suy nghĩ CO2 và pH là như nhau có thể dẫn đến rắc rối.
Tìm hiểu lượng CO2 cần thiết cho cây mất rất nhiều thời gian, so sánh lượng độ pH vào lúc sáng sớm và buổi tối. Độ pH sẽ thấp nhất vào buổi sáng (trước khi mở đèn) trong suốt một đêm cá hô hấp và sản sinh ra CO2, và độ pH sẽ cao nhất vào buổi tối (trước khi tắt đèn) do cây sử dụng CO2 để quang hợp và sản sinh ra O2. Sự chênh lệch của hai giá trị càng lớn thì mức tiêu thụ CO2 càng nhiều và cây càng khỏe.
Ban ngày, nếu như độ pH không giảm dù có thêm vào CO2 đó là do cây liên tục quang hợp. Độ pH lý tưởng cho hồ thủy sinh là 6.8 tuy nhiên nếu pH trong khoảng 7.5 ban ngày thì thường cũng không ảnh hưởng gì.
Thực ra, nguy hiểm tiềm ẩn có thể đến từ những hóa chất là cho độ pH giảm. Potassium carbonate thường được sử dụng để làm giảm độ pH, ngoài ra nên tránh sử dụng hóa chất làm giảm độ pH khác.
Phần II: ÁNH SÁNG
Mọi loài cây đều cần ánh sáng, nhưng không chỉ đơn giản đặt hồ thủy sinh ngay cạnh cửa sổ là giải quyết được vấn đề. Ánh sáng quá mức là nguyên nhân chủ yếu của việc bùng nổ rêu hại trong hồ thủy sinh. Cách tốt nhất để kiểm soát chiếu sáng trong hồ thủy sinh là cách ly hoàn toàn với ánh sáng tự nhiên và chỉ sử dụng ánh sáng nhân tạo thay thế. Có một thực tế là anh sáng mặt trời mang lại sức khỏe và vẻ đẹp cho cá. Tuy nhiên tia cực tím trong ánh sáng mặt trời thì không cần thiết đối với cây thủy sinh. Cây thủy sinh được trồng trong nhà thường đẹp hơn rất nhiều so với cây trồng ngoài trời.
Có rất nhiều lựa chọn cho việc chiếu sáng, đèn thủy ngân, đèn halogen, và đèn huỳnh quang. Đèn huỳnh quang được đánh giá thực tế và kinh tế nhất.
Rất nhiều người có nhận xét sai lầm là đèn trồng cây trong nhà kính thích hợp với cây thủy sinh, loại đèn đó chỉ phát ra ba loại sóng cần thiết cho sự phát triển của cây, thích hợp với loại cây cạn như Saint Paulia. Một sai lầm nữa là cường độ ánh sáng của loại đèn này chỉ bằng một phần ba so với đèn thủy ngân (được đo bằng độ luxes), làm hồ thủy sinh cảm giác tối hơn. Một số người chọn loại đèn này vì ánh sáng đỏ của nó. Riêng cá nhân tôi, màu sắc sẽ rất kì dưới ánh sáng đó.
Loại đèn được sử dụng nhiều nhất là loại đèn thủy ngân tròn, loại tôi cho là tốt nhất. Nhiều loại đèn được sản xuất có sự khác biệt về độ chiếu sáng, chủng loại và độ bền, hãy chọn cho mình loại phù hợp nhất.
Công suất của đèn tùy thuộc vào lượng CO2 có trong môi trường nước. Nếu ánh sáng nhiều mà cây không nhận đủ lượng CO2 cần thiết thì cây có thề bị ảnh hưởng. Ngược lại nếu tăng lượng CO2 mà không cung cấp đủ ánh sáng, cây sẽ không quang hợp tốt, lượng CO2 ở mức cao có thể ảnh hưởng đến cá và tép.
Sự cân bằng giữa ánh sáng và CO2 phụ thuộc vào nhiều yếu tố bao gồm nhiệt độ môi trường nước và loại cây. Cây có thể chia làm hai loại chính: loại cần nhiều ánh sáng và loại cần ít ánh sáng.Những loại như dương xỉ và anubias được xem là loại dễ trồng vì là loại cây ưa bóng râm, loại này cũng dễ thích nghi với điều kiện ánh sáng nhiều.
Loại cây trong phong cách Hà Lan, lá kim và có màu đỏ được cho là khó trồng đẹp vì cần nhiều ánh sáng và CO2, đây là loại cây khó thích nghi hơn cây ưa bóng râm.
Hãy giả dụ như vậy, hồ 60cm trồng Anubias và Cryptocoryne loài lá rộng ưa bóng râm cần một bóng 20W với một lượng lớn CO2 một lần mỗi ngày. Cùng với bể tương tự nếu ta trồng cây ưa sáng thì phải dùng ba bóng 20W và một lượng CO2 hòa tan cho mỗi 5 giây nhằm đảm bảo vẻ đẹp cho cây. Trong khi làm hồ nên chú ý vị trí cây sao cho cây cần nhiều sáng nằm ở vị trí nhận sáng tốt nhất và dành bóng râm cho cây cần ít sáng hơn.
Đèn huỳnh quang sẽ giảm dần độ chiếu sáng sau sáu tháng sử dụng. Hồ thủy sinh trồng cả hai loại ưa sáng và ít sáng mức độ ảnh hưởng của việc giảm độ chiếu sáng của đèn thể hiện rất rõ. Thời gian đầu cây ưa sáng sẽ đẹp hơn, khi độ chiếu sáng của giảm ít sáng sẽ đẹp hơn.
Source: congiun-Aquasaigon
Thứ Bảy, 26 tháng 11, 2011
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét